Ngày xửa ngày xưa, xa tận đời nảo đời nào không ai nhớ rõ cả, chỉ biết rằng cách đây đã rất lâu rồi, con người luôn sống trong cảnh thiếu thốn và đói khát. Họ chưa có quần áo để mặc, mà chỉ biết dùng vỏ cây làm khố, da thú làm áo che thân. Họ cũng không biết ăn cơm, mà chỉ hái rau rừng, cỏ dại sống qua ngày đoạn tháng.
Con người phải lang thang hết vùng này đến vùng nọ. Nơi nào có nhiều rau quả thì họ dựng lều ở tạm. Khi nào ở đó hết thức ăn thì họ lại cuốn gói, dắt nhau đi nơi khác. Cuộc sống du mục như vậy không biết bao giờ mới chấm dứt.
Trải qua rất nhiều năm sau đó, con người sinh sôi ngày một đông, còn thức ăn mỗi ngày một ít đi. Hơn nữa, họ đi đến đâu là tàn phá thiên nhiên đến đấy. Cuộc sống đã khó vì thế càng trở nên chật vật hơn.
Năm ấy, thời tiết không được thuận hòa, thức ăn ít hẳn nên hầu như mọi người đều bị đói. Nhiều người phải bỏ đi thật xa. Trong số ấy, có hai vợ chồng trẻ lâm vào bước đường cùng, phải dắt nhau vào rừng sâu để sinh sống. Họ đi mãi, đi đến khi mệt lả rồi mà vẫn chưa tìm được chỗ dừng chân. Đến chiều tối, hai vợ chồng thấy một đàn chim bay sà xuống một vùng cỏ nâu vàng. Mệt quá, họ dừng lại đấy và dựng một túp lều con tạm nghỉ chân ở đó.
Hàng ngày, vợ lên núi kiếm rau tìm quả dại, còn chồng đặt bẫy bắt chim. Nơi đây hoang vu, rậm rạp, không có con người tranh giành thức ăn, cuộc sống vì thế cũng tạm ổn. Những con chim họ bắt được đều ăn một loại hạt màu vàng. Con nào con nấy béo tròn, thịt lại ăn vừa thơm vừa ngọt. Thấy chim ăn hạt màu vàng béo tốt, thơm ngon, chị vợ liền nói với chồng:
– Chàng ạ, thiếp nghĩ thứ hạt mà chim ăn được thì thế nào chúng ta cũng ăn được.
Người chồng gật đầu tỏ vẻ đồng tình. Rồi họ ăn thử hạt ấy, thấy thơm ngon và ăn vào no lâu hơn ăn rau rừng. Sau một thời gian ăn hạt đó, họ không cảm thấy chán, mà người thì mỗi lúc cứ khỏe ra.
Hai vợ chồng ra rừng lấy hạt ấy về ăn dần. Năm tháng trôi qua, người và chim ăn nhiều nên loại hạt lạ này cũng dần ít đi. Thấy vậy, hai vợ chồng bèn trồng thử một ít thứ hạt màu vàng đó ở cạnh túp lều của mình, thì thấy cây không những dễ sống, mà ngày càng xanh tốt.
Đến ngày thu lượm, họ thấy trồng một hạt lại thu được cả chùm hạt. Năm sau, họ lại trồng nhiều hơn năm trước. Cứ thế, hai vợ chồng không bao giờ còn phải vào rừng hái rau ăn nữa.
Sau vài năm mưa thuận gió hòa, hai vợ chồng thu hoạch được rất nhiều loại hạt này. Ăn không hết, họ bèn bàn nhau đưa giống hạt ấy về cho người quen cũ trồng.
Sau bao ngày đêm vất vả lội suối băng rừng, cuối cùng hai vợ chồng cũng tìm được người quen ở vùng xa xôi. Họ kể lại cách sinh sống làm ăn của mình trong những năm vừa qua ở vùng rừng nọ, rồi đưa cho mọi người những hạt vàng làm giống.
Mọi người cảm ơn hai vợ chồng tốt bụng đã gặp may tìm được loại hạt vàng ăn thay rau rừng, lại còn lấy được giống cho mọi người cùng trồng.
Hạt vàng đó chính là hạt lúa ngày nay. Sự tích hạt lúa cũng từ đó mà ra